Khoai môn[4][5][6] (/ˈtɑːroʊ, ˈtær-/; Colocasia esculenta) là một loại rau ăn củ. Đây là loài được trồng rộng rãi nhất trong một số loài thực vật thuộc họ Araceae, được sử dụng làm rau để lấy củ, lá, thân và cuống lá của chúng. Củ khoai môn là một loại thực phẩm chủ yếu ở các nền văn hóa châu Phi, châu Đại Dương, Đông Á, Đông Nam Á và Nam Á (tương tự như khoai từ). Khoai môn được cho là một trong những cây được trồng sớm nhất.
Thuật ngữ khoai môn trong tiếng Anh taro được mượn từ tiếng Māori khi thuyền trưởng Cook lần đầu tiên quan sát các đồn điền Colocasia ở New Zealand vào năm 1769. Hình thái taro hay talo phổ biến trong các ngôn ngữ Polynesia:[7] taro trong tiếng Tahiti; talo bằng tiếng Samoa và Tonga; kalo trong tiếng Hawaii ; taʻo ở tiếng Marquesas. Tất cả hình thái này đều bắt nguồn từ *talo trong ngữ hệ nguyên thủy của Polynesia,[7] mà bản thân nó có nguồn gốc từ *talos trong ngữ hệ nguyên thủy châu Đại Dương (cf. dalo trong tiếng Fiji) và *tales trong ngữ hệ nguyên thủy của Nam Đảo (cf. tales trong tiếng Java).[8] Tuy nhiên, sự bất thường trong tương ứng âm thanh giữa các dạng cùng nguồn gốc trong tiếng Nam Đảo gợi ý rằng thuật ngữ này có thể được mượn và lan truyền từ một ngôn ngữ Nam Á, có lẽ ở Borneo (cf. ngữ hệ nguyên thủy Môn Khmer * t 2 rawʔ, Khasi shriew, Khmu sroʔ, nguyên thủy tiếng Việt *s-roːʔ ).[9]
Trong ngôn ngữ Odia (được sử dụng rộng rãi ở vùng Odisha[10] của Ấn Độ), chúng được gọi là sāru (ସାରୁ).[10]
Ở Síp, khoai môn đã được sử dụng từ thời đế quốc La Mã. Ngày nay chúng được gọi là kolokasi (Kολοκάσι). Chúng thường được chiên hoặc nấu với ngô, thịt lợn hoặc thịt gà trong nước sốt cà chua trong nồi đất. "Baby" kolokasi được gọi là "poulles": sau khi chiên khô, thêm rượu vang đỏ và hạt rau mùi vào, sau đó dùng kèm với chanh tươi vắt. Gần đây, một số nhà hàng đã bắt đầu phục vụ những lát kolokasi chiên giòn mỏng, gọi chúng là "kolokasi lát mỏng".
Tên Ngôn ngữ gabi Tagalog natong/apay Bikolano[11] ede Igbo jimbi Swahili kókò/lámbó Yoruba kacu (কচু) Assamese kacu (কচু) Bengali[12] kacu (কচু) Kamtapuri/Rajbongshi/Rangpuri kolokasi (Kολοκάσι) Cypriot Greek kēsave (ಕೇಸವೆ) Kannada qulqas (قلقاس) Arabic kontomire Akan kiri aḷa (කිරි අළ) Sinhala arbī (अरबी) Hindi arvi (ਅਰਵੀ) Punjabi aruī (अरुई) Bhojpuri arikanchan (अरिकञ्चन) Maithili[13] aḷavī (અળવી) Gujarati āḷū (आळू) Marathi ala (އަލަ) Dhivehi aba Ilocano sāru (ସାରୁ) Odia piḍālu (पिडालु) Nepali cēmpu (சேம்பு) Tamil cēmpŭ (ചേമ്പ്) Malayalam cāma (చామ) Telugu (khoai) môn Vietnamese vēnṭī (वेंटी) Konkani yendem (ꯌꯦꯟꯗꯦꯝ) Meitei/Manipuri 芋 (yù)/芋頭 (yùtou) Chinese 芋 (ō͘/ū) or 芋仔 (ō͘-á) Taiwanese Hokkien[14] vasa Paiwan[15] tali Amis[16][17] Chinese tayer Surinamese Dutch saonjo Malagasy toran (토란) Korean tolotolo Bukusu pheuak, puak (เผือก) Thai pheuak, puak (ເຜືອກ) Lao kheu (ခုၣ်) S'gaw Karen nabbiag Ahamb pweta Wusi *b(u,i)aqa, *bweta Proto North-Central-Vanuatu (reconstructed)[18] *talo(s), *mʷapo(q), *piRaq, *bulaka, *kamʷa, *(b,p)oso Proto Oceanic (reconstructed)[19]Những cái tên khác bao gồm amadumbe hoặc madumbi trong tiếng Zulu,[20] boina trong tiếng Wolaita của Ethiopia, hoặc amateke ở Kirundi và Kinyarwanda.[21] Ở Tanzania, chúng được gọi là magimbi trong tiếng Swahili. Ở Madagascar, chúng được gọi là saonjo. Chúng còn được gọi là eddo ở Liberia.
Ở Caribe và Tây Ấn, khoai môn được gọi là dasheen ở Trinidad và Tobago, Saint Lucia, Saint Vincent và Grenadines[22] và Jamaica.[23]:23 Lá cây được người Indo-Trinidad và Tobago gọi là aruiya ke bhaji.[24]
Trong tiếng Bồ Đào Nha, chúng được gọi đơn giản là taro, cũng như inhame, inhame-coco, taioba, taiova, taioba-de-são-tomé hoặc matabala;[25][26] trong tiếng Tây Ban Nha, chúng được gọi là malanga.[27][28]
Từ ngữ Hy Lạp cổ κολοκάσιον (kolokasion, nghĩa đen 'rễ sen') là nguồn gốc của từ ngữ kolokasi trong tiếng Hy Lạp hiện đại (κολοκάσι), từ ngữ kolokas bằng cả tiếng Hy Lạp và tiếng Thổ Nhĩ Kỳ và qulqas (قلقاس) bằng tiếng Ả Rập. Nó được tiếng Latin mượn thành colocasia, do đó trở thành danh pháp chi Colocasia.[29][30]
Khoai môn là một trong những loài được trồng rộng rãi nhất trong nhóm thực vật lâu năm nhiệt đới, thường được gọi thông tục là "tai voi", khi được trồng làm cây cảnh.[31] Các loài thực vật khác có cùng biệt danh bao gồm một số loài ráy có liên hệ sở hữu lá lớn hình trái tim, thường nằm trong các chi như Alocasia, Caladium, Monstera, Philodendron, Syngonium, Thaumatophyllum và Xanthosoma.
Ở Philippines, toàn bộ cây thường được gọi là gabi, trong khi thân cây được gọi là taro. Khoai môn là hương vị trà sữa rất phổ biến trong nước và cũng là nguyên liệu quen thuộc trong một số món ăn mặn của Philippines như sinigang.
Khoai môn là thực vật nhiệt đới lâu năm, chủ yếu được trồng làm rau ăn củ để lấy thân củ có nhiều tinh bột, ăn được. Cây có thân rễ với nhiều hình dạng và kích cỡ khác nhau. Lá dài đến 40 cm × 25 cm (15,7 in × 9,8 in) và mọc ra từ thân rễ. Chúng có màu xanh đậm ở trên và màu xanh nhạt ở dưới. Chúng có hình ovan gần nhọn, hơi tròn và có hình mút nhọn ở đỉnh, với đầu của các thùy đáy tròn hoặc hơi tròn. Cuống lá cao 0,8-1,2 m (2,6-3,9 ft). Ống lá có thể dài đến 25 cm (10 in). Bông mo dài khoảng 3/5 đoạn mo, với phần đóa hoa có đường kính dài đến 8 mm (0,31 in). Cụm hoa cái nằm ở bầu nhụy màu mỡ xen lẫn với bầu khác màu trắng vô sinh. Hoa vô tính phát triển phía trên hoa cái và có thùy hình thoi hoặc không đều, có 6 hoặc 8 tế bào. Phần phụ ngắn hơn cụm hoa đực.
Khoai môn có họ hàng với Xanthosoma và Caladium, những loại cây thường được trồng làm cảnh. Giống như chúng, đôi khi được gọi một cách mơ hồ là tai voi. Các giống khoai môn tương tự gồm có khoai môn khổng lồ (Alocasia macrorrhizos), khoai môn đầm lầy (Cyrtosperma merkusii) và tai voi có lá mũi tên (Xanthosoma sagittifolium).
Carl Linnaeus ban đầu mô tả hai loài, Colocasia esculenta và Colocasia antiquorum, nhưng nhiều nhà thực vật học sau này xem cả hai đều là thành viên của một loài duy nhất, rất đa dạng, danh pháp chính xác là Colocasia esculenta.[32]
Tính ngữ khoa học, esculenta, có nghĩa là "ăn được" trong tiếng Latin.
Khoai môn được cho là có nguồn gốc từ Nam Ấn Độ và Đông Nam Á nhưng được du nhập rộng rãi.[33][34] Khoai được cho là có nguồn gốc từ vương quốc Indomalaya, có lẽ ở Đông Ấn Độ, Nepal và Bangladesh. Khoai lan truyền bằng con đường trồng trọt theo hướng đông vào Đông Nam Á, Đông Á và hải đảo Thái Bình Dương; theo phía tây đến Ai Cập và miền đông lưu vực Địa Trung Hải; rồi từ đó hướng về phía nam và phía tây vào Đông Phi và Tây Phi, nơi mà khoai lan truyền đến vùng Caribe và châu Mỹ.
Khoai môn có lẽ có nguồn gốc đầu tiên ở vùng đất ngập nước thấp của Malaysia, nơi chúng được gọi là taloes .
Ở Úc, C. esculenta var. aquatilis được cho là có nguồn gốc ở vùng Kimberley thuộc Tây Úc; giống esculenta phổ biến hiện đã được du nhập và được xem là một loại cỏ dại xâm lấn ở Tây Úc, Lãnh thổ Bắc Úc, Queensland và New South Wales.
Ở châu Âu, C. esculenta được trồng tại Síp và được gọi là Colocasi (Κολοκάσι trong tiếng Hy Lạp) và được chứng nhận là sản phẩm PDO. Khoai cũng sinh sống trên đảo Ikaria của Hy Lạp và được xem là nguồn thực phẩm quan trọng cho hòn đảo trong Thế chiến thứ hai.[35]
Ở Thổ Nhĩ Kỳ, C. esculenta có tên địa phương là gölevez và được trồng chủ yếu ven bờ biển Địa Trung Hải, chẳng hạn như huyện Alanya của tỉnh Antalya và huyện Anamur của tỉnh Mersin.
Ở Macaronesia, loại cây này đã được du nhập, có lẽ là kết quả của những khám phá của người Bồ Đào Nha và thường được dùng trong chế độ ăn của người Macaronesia như một nguồn carbohydrat quan trọng.
Ở miền đông nam Hoa Kỳ, loài cây này được công nhận là loài xâm lấn.[36][37][38][39][40] Nhiều quần thể thường tìm được mọc gần các mương thoát nước và bayou ở Houston, Texas.
Khoai môn là một trong những loại cây trồng cổ xưa nhất.[41][42] Khoai môn phân bố rộng rãi khắp các vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới ở Nam Á, Đông Á, Đông Nam Á và Papua New Guinea, miền bắc Australia và Maldives. Khoai môn có tính đa hình cao, khiến cho việc phân loại và phân biệt giữa loài hoang dã và trồng trọt trở nên khó khăn. Người ta tin rằng chúng đã được thuần hóa độc lập nhiều lần. Giới học giả đưa ra các địa điểm có thể là New Guinea, lục địa Đông Nam Á và đông bắc Ấn Độ, chủ yếu dựa trên phạm vi bản địa giả định của các loài thực vật hoang dã.[43][44][45] Tuy nhiên, nhiều nghiên cứu gần đây đã chỉ ra rằng khoai môn hoang dã có thể có phân bố bản địa lớn hơn nhiều so với những gì được tin tưởng trước đây và các kiểu nhân giống hoang dã cũng có thể là bản địa tại các khu vực khác của Đông Nam Á hải đảo.[46][47]
Dấu vết khảo cổ về hoạt động khai thác khoai môn đã được phục hồi từ nhiều địa điểm, mặc dù không thể xác định chắc chắn đây là loại được trồng hay hoang dã. Chúng bao gồm hang Niah ở Borneo khoảng 10.000 năm trước,[48] hang Ille ở Palawan, có niên đại ít nhất 11.000 năm trước;[48][49] đầm lầy Kuk ở New Guinea, có niên đại từ năm 8250 TCN đến 7960 TCN;[50][51] và hang Kilu ở Quần đảo Solomon có niên đại khoảng 28.000 đến 20.000 năm trước.[52] Trong trường hợp đầm lầy Kuk, có bằng chứng về nền nông nghiệp chính thức xuất hiện khoảng 10.000 năm trước, với bằng chứng về các thửa đất được canh tác, mặc dù loại cây nào được trồng vẫn chưa biết.[53]
Khoai môn được người Nam Đảo mang đến các đảo Thái Bình Dương từ khoảng năm 1300 TCN. Tại đây, chúng trở thành cây trồng chủ yếu của người Polynesia, cùng với các loại "khoai môn" khác, như Alocasia macrorrhizos, Amorphophallus paeoniifolius và Cyrtosperma merkusii. Chúng là cây quan trọng nhất và được ưa thích nhất trong số bốn loại vì ít khả năng chứa tinh thể hình kim gây khó chịu có trong các loại cây khác.[54][55] Khoai môn cũng được xác định là một trong những thực phẩm chủ yếu tại Micronesia, từ bằng chứng khảo cổ học có niên đại từ thời kỳ Latte tiền thuộc địa (khoảng 900 - 1521 SCN), cho biết rằng khoai cũng được người Micronesia mang theo khi họ xâm chiếm quần đảo.[56][57] Phấn hoa khoai môn và dư lượng tinh bột cũng đã được xác định tại địa điểm Lapita, có niên đại từ năm 1100 TCN đến năm 550 TCN.[58] Khoai môn sau đó được truyền đến Madagascar vào đầu thế kỷ I SCN.[59]
Năm 2022, sản lượng khoai môn toàn thế giới là 18 triệu tấn, dẫn đầu là Nigeria với 46% tổng sản lượng (bảng).
Khoai môn có sản lượng lớn thứ năm trong số các loại cây lấy rễ và củ trên toàn thế giới.[60] Năng suất khoai môn bình quân khoảng 7 tấn/ha.[60]
Khoai môn có thể được trồng trên ruộng lúa nơi có nhiều nước hoặc ở vùng cao nơi được mưa rút nước hoặc tưới bổ sung. Khoai môn là một trong số ít cây trồng (cùng với lúa và sen) có thể trồng được trong điều kiện ngập nước. Canh tác ngập nước có vài lợi thế so với canh tác trên đất khô như: năng suất cao hơn (khoảng gấp đôi), sản xuất trái mùa (có thể dẫn đến giá cao hơn) và kiểm soát cỏ dại (tạo điều kiện ngập lụt thuận lợi).
Sản xuất khoai môn - 2022 Quốc gia (Triệu tấn ) Nigeria 8.2 Trung Quốc 1.9 Cameroon 1.9Giống như hầu hết các loại cây trồng lấy củ, khoai môn và khoai sọ phát triển tốt ở vùng đất sâu, ẩm hoặc thậm chí đầm lầy, nơi có lượng mưa hàng năm vượt quá 2,500 mm (0,0984 in). Khoai sọ có khả năng chịu hạn hán và lạnh tốt hơn. Cây trồng đạt độ chín trong vòng 6 đến 12 tháng sau khi trồng tại vùng đất khô và sau 12 đến 15 tháng tại vùng đất ngập nước. Thu hoạch khi chiều cao cây giảm và lá chuyển vàng.
Link nội dung: https://aicschool.edu.vn/khoai-mon-tieng-anh-la-gi-a106308.html